Cảnh cũng lại diễn ra y hệt như là đêm qua, trong màn sương nhạt, đứa con gái mặc quần áo trắng toát, mái tóc rũ xuống, che một phần khuôn mặt xanh xao, chià bàn tay xin:
- Ông cho con xin bát cơm. Con đói quá!
ông Phú đứng chết cứng như chôn chân xuống nền gạch, á khẩu không nói được lời nào. Xa xa ở cuối sân sát cổng ra vào, ông lại thấy người đàn bà trẻ mặc đồ trắng, cất tiếng gọi:
- Về con ơi, về với mẹ con ơi!
ông Phú kinh hãi đến tột cùng, tiếng nói của cả hai mẹ con vừa trong, vừa lạnh như vọng về từ cõi âm. Cả hai khuông mặt đều mờ ảo, ông không trông rõ, không nhận diện được. Đứa bé chìa tay khẩn khoảng nhắc lại:
- Xin ông bố thí cho con bát cơm, con đói lắm.
Và ngay sau đó tiếng người mẹ từ ngoài cổng cũng cất lên:
- Về con ơi, về với mẹ con ơi!
Con mèo đen từ chân ông, lao về phía đứa bé. Lập tức đứa bé quay lưng và vụt mất. ông Phú chớp mắt mấy cái và bừng tỉnh. Bấy giờ ông mới thấy ở cuối sân, hai mẹ con dắt nhau ra cổng. ông vẫn đứng run rẩy tại chỗ như có ai níu chặt lấy đôi chân ông, cả phút sau mới hoàn hồn. ông toan bước vào nhà, thì một bàn tay bấu mạnh trên vai ông, ông hét lớn quay đầu lại thì hóa ra vợ ông, bà hỏi:
- Ông làm cái gì ngoài này thế?
ông Phú thở hồng hộc như người chạy đua đường trường, bà Phú dìu ông vào nhà, để ngồi ở ghế và vặn to ngọn đèn dầu. Con mèo đen cũng theo vào, nhảy lên chỗ củ. Bấy giờ, bà Phú mới nhận ra nét nhợt nhạt đẩm ướt mồ hôi trên khuôn mặt của chồng. Bà rót nước tro cho ông và bảo:
- Ngồi xuống, ông ngồi xuống hẳng đi rồi uống cốc nước nóng này đi đã. Uống rồi cho tỉnh.
Rồi bà lấy cái khăn vải máng ở đuôi giường lau mặt cho chồng. ông Phú uống cạn cốc nước, đòi thêm một ly nữa, rồi run run bảo bà:
- Bà... .bà cầm đèn đi với tôi, tôi phải đi giải một cái đã.
Bà Phú làm theo chồng. Lần đầu tiên sau hiền lành bạc nhược khác hẳn với thái độ hách dịch và hung bạo thường ngày. Bà đi trước, giơ cao cái đèn soi bước, bà đẩy cái cánh cửa cho chồng bước ra, nhưng cánh cửa vừa mở, ông đã kêu thét lên và lùi lại. Vì thấy hai cái bóng người đứng ngay trên thềm nhìn ông chờ đợi. Bà Phú vội trách:
- Cái gì mà ông cứ la ầm lên giữa đêm khuya vậy? Làng xóm người ta kéo sang bây giờ.
Hai bóng người đứng đó cùng lao lại đở ông vì đó là chị người làm và cô con gái. Chị Thuần lên tiếng:
- Ơ! Con đây mà ông.
ông Phú đặt bàn tay lên ngực, khò khè thở và mắng:
- Chúng mày... .chúng mày ra làm cái gì đây? Tao cứ tưởng là ma.
Cô con gái đáp:
- Tại con đang ngủ, tự nhiên con nghe bố hét to quá à. Con vội lay chị Thuần dậy, chạy lên xem bố có việc gì không?
Bà Phú buồn rầu bảo:
- Thôi, đi ngủ hết đi. Mẹ rửa mặt cho tỉnh táo, từ hôm qua đến giờ cứ mê man, nói lung tung.
Và bà bảo chị người làm:
- Thôi, chị cũng đi ngủ đi, còn sớm lắm. Có cần gì thì tôi gọi ngay.
Bà Phú bước xuống sân, ông Phú nắm chặt cánh tay vợ đi từng bước chậm chạp sát bên cạnh. ông không dám nhìn ra phía cổng, bởi ông hình dung hai cái bóng trắng vẫn đứng đó chờ đợi ông. Ra tới bên hông nhà, bà Phú đặt cây đèn trên bệ nước xi măng, lấy khăn nhúng ướt cho ông lau mặt, rồi đứng chờ ông đi tiểu bên bệ chuối. Gió thổi xào xạc trong hốc cây, những tàn lá chuối run lên phần phật, ngọn đèn dâù tắt phụt làm ông Phú lại một phen khiếp vía.
Trăng thượng tuần soi mờ không gian, chẳng cần đèn ông cũng đã rành đường đi nước bước từng hốc cạnh trên mãnh đất lâu đời của ông. Nhưng vì cảm giác hoản loạn, ông cần ngọn đèn cho đỡ sợ. Bà vợ nắm tay ông dắt vào nhà, ngang qua mảnh sân, ông bổng nghe tiếng chó gầm gừ, rồi sủa vang ở ngoài cổng, ông bấu chặt cánh tay vợ và hổn hển nói:
- Mẹ con nó đang đi ngoài ấy!
Bà Phú ngơ ngác hỏi:
- Mẹ con ai? ông làm sao thế?
ông Phú run rẫy đáp:
- Bà không nghe tiếng chó sủa hay sao?
Quả thực ngoài ngõ, tiếng chó đang tru lên từng hồi như ai oán, và lại sủa lên. Và cứ mỗi lúc một xa dần. ông Phú nhắc lại:
- Đấy, bà có nghe thấy không? Mẹ con nó dắt nhau đi ngoài đường.
Bà Phú mệt mỏi nhắc lại:
- Mẹ con ai mới được chứ lị? Chó thì đêm nào mà chả sủa, có khi chó nó sủa bóng trăng, rồi có khi chó nó sủa người đi đánh dặm. ông lẩn thẩn mất rồi, ở nhà quê mà đêm không có nghe tiếng chó thì chẳng lẽ cả đêm người ta thức để canh trộm à?
Bà nói dứt câu, thì hai người cũng vừa lên tới bậc thềm, đẩy cửa bước vào nhà. Bà Phú bật diêm châm đèn, vừa ngáp vừa bảo chồng:
- Thôi, ngủ đi ông, đừng có giựt mình rồi thức dậy nữa. Cố ngủ đi một tí, trời sắp sáng rồi. Chốc nữa tôi bảo con Nhàn đi mời thầy thuốc bắc, bốc thuốc cho ông.
Rồi bà lên giường nằm quay mặt vào vách, nhắm mắt lại. ông Phú cũng nằm nhắm mắt, phủ chăn lên tận ngực, nhưng tất nhiên không ngủ được. ông nằm lan man nghĩ ngợi một lúc khá lâu, rồi bỗng vùng dậy ngồi tựa lưng vào vách là vì trong mớ trí tưởng hổn độn của quá khứ vừa ùa về trong trí ông. ông chợt thấy lạnh toát toàn thân vì nhớ ra câu chuyện cũ đã lâu lắm, lâu đến nổi chẳng bao giờ ông nghĩ tới cho đến đêm nay bổng loé lên trong đầu ông, dắt ông về một kỷ niệm của ngày tháng cũ.
Dạo ấy, ông đã có ba con rồi, nhưng vẫn đam mê cái thú cô đầu trên phố huyện. Trò tiêu khiển cuối muà này lôi cuốn ông không phải vì ông thích văn chương thơ phú, hay ghiền tiếng trống chầu kêu khách, mà chỉ vì nhà hát có những cô hầu rượu trẻ trung lúc nào cũng tựa má, kề vai thân thiết với ông.
Gọi là đào rượu bởi thiếu nữ ấy không phải là ca nhi, họ chỉ vì túng thiếu, phải bỏ nhà quê lên thành phố. Tấp vào những nhà hát để làm công việc hầu rượu và quạt mát cho Quan viên đến thưởng thức. Ông Phú là một trong những Quan viên lắm của nhiều tiền, thường xuyên ghé chơi vào những ngày rãnh rỗi. ông có xe kéo riêng, từ làng Vạn Yên lên phố huyện chỉ mất khoảng ba tiếng đồng hồ. ông hách dịch lắm nhưng phóng tay xài rộng nên chủ chứa rất quí trọng và ra sức chìu chuộng. Họ giao ông cho cô đào Tuyết mới ngoài 20, vào nghề chưa được nữa năm. Tuyết phục dịch ông chu đáo lắm, từ lời ăn tiếng nói, dáng đi dáng đứng, từ cái quạt nan cầm tay phe phảy liên tục cho ông, tới cốc rượu nồng nâng lên miệng ông khi ông kê gối ngã đầu trên đùi cô. Sự chung đụng xác thịt dĩ nhiên không thể dừng lại ở đó. Lần nào trước khi ra hát từ, ông cũng ngủ với cô một đêm, rồi mới chia tay hẹn gặp chuyến tới.
Bà Phú cũng biết cái thú của chồng, nhưng chuyện ấy không làm bà bận tâm nhiều lắm. Bởi ông làm ra tiền, thì đi ngang về tắt để giải sầu một tháng đôi ba ngày cũng không có gì quá đáng đối với đàn ông thời ấy.